Nghi thức dâng hương là tập quán mà hầu như mọi người dân Á châu bất kể lứa tuổi nào và sống ở nơi đâu đều biết đến. Nén hương đã đi vào đời sống văn hóa, tín ngưỡng của người Việt Nam như một nét đẹp truyền thống, gần gũi và thiêng liêng. Dù không mê tín dị đoan, trong tâm thức mọi người Á Châu đều tin rằng nén hương khi đốt lên, cũng như một nhịp cầu vô hình nối kết hai thế giới hữu hình và vô hình với nhau. Tuy nhiên về mặt tâm linh, có người vẫn còn hiểu một cách mơ hồ, nhất là về ý nghĩa dâng hương theo truyền thống của ông bà. Thậm chí ngày nay có người còn không biết vì sao trong nhà mình có một bàn thờ với những pho tượng, hình ảnh Chư Phật Bồ Tát, thần thánh hoặc tổ tiên. Phải chăng có một “ông” Phật sống ở trên bàn thờ ? Quý khách cùng tìm hiểu chi tiết hơn trong bài viết dưới đây của LĂNG MỘ ĐÁ ANH QUÂN NINH BÌNH.
2. Định Nghĩa thắp nhang
Nội dung chính
- 1 2. Định Nghĩa thắp nhang
- 1.1 Dâng hương là gì?
- 1.2 3. Sự đặc biệt của nén hương đối với quê hương Việt Nam
- 1.3 4. Lược sử về hình thức đốt nhang
- 1.4 5. Lợi ích và tác dụng của nén hương
- 1.5 6. Khi thắp nhang nên thắp mấy nén?
- 1.6 7. Ý Nghĩa Dâng Hương trong nhà Phật và các tôn giáo khác
- 1.7 Hương trầm, sợi dây nối với thế giới tâm linh
- 1.8 Hương thơm đặc trưng của khói trầm
- 1.9 Người dân đi lễ chùa với những bó hương thơm
Dâng hương là gì?
Dâng có nghĩa là đưa lên một cách cung kính, tiếng Anh gọi là “offering”. Và từ hương có nghĩa là mùi thơm, thông thường là một vật dùng đốt lên để cúng các đấng thiêng liêng, cũng được gọi là nhang và trầm, tiếng Anh là “incense”. Từ incense bắt nguồn từ ngôn ngữ Latin, và động từ incendere – có nghĩa là thắp cháy lên[1].
3. Sự đặc biệt của nén hương đối với quê hương Việt Nam
Chuyện thắp hương trên bàn thờ tổ tiên là một nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp giỗ chạp, lễ Tết. Ngày cuối năm đi mua sắm các thứ chuẩn bị cho Tết, không ai không mua vài nén hương về thắp cho ông bà, tổ tiên mình. Nén hương được thắp lên thì mọi người cảm thấy ấm lòng. Nén hương lúc này không còn là thứ hàng bình thường, mà nó đã trở thành một sản phẩm tinh thần không thể thiếu của người dân Việt. Cùng với những phong tục truyền thống khác, nén hương đã góp phần tạo nên và bảo tồn giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam[2].
Mùi hương là mùi thơm quen thuộc trong nhà hằng triệu triệu người Á châu – là mùi thơm đặc biệt của ngày đầu năm đi chùa lễ Phật. Chúng ta luôn bắt gặp những hình ảnh rất quen thuộc: những cụ ông, cụ bà, nam thanh, nữ tú, tay cầm hương khấn vái cầu mong một năm mới an khang, thịnh vượng, phúc lộc thọ khang ninh… Đây hoàn toàn không phải là hành động mê tín dị đoan, mà là một nét đẹp văn hóa được tồn tại từ rất lâu.
4. Lược sử về hình thức đốt nhang
Theo lịch sử ghi lại, việc đốt nhang bắt nguồn từ khoảng năm 3700 BC[3] (cách đây khoảng 5700 năm), từ nước Ấn Độ [4]. Đến năm 618 AD vào đời nhà Tần mới có một vị Tăng[5] đem hương trầm qua Trung Quốc, từ đó hình thức đốt nhang được phát triển mạnh mẽ và hưng thịnh nhất vào đời nhà Minh, sau đó được phổ biến đến khắp các nước láng giềng. Có thể nói hình thức đốt hương phổ biến nhất ở Nhật Bổn, tại đây họ lại chế thêm nhiều cách đốt hương; sản phẩm quen thuộc nhất là nén trầm hình tròn đầu nhọn vào thế kỷ 17 [6], ngày nay vẫn còn dùng. Nhiều tài liệu cho thấy việc đốt nhang đã có từ thời sơ khai. Trong các đền thờ của vua chúa Ai Cập (Ancient Egypt) có rất nhiều những hình vẻ hoặc hình chạm trên tường mô tả nghi thức này.
Ngày nay việc đốt nhang đã trở thành một tập quán trong các ngày lễ hội như Rằm tháng bảy, lễ Vu Lan, Vía Quán Thế Âm, ngày Tết hái lộc đầu năm, Phật đản, và những ngày quan trọng trong gia đình như cúng giỗ, đám tang, đám cưới, ăn tân gia… dùng để cúng những vị như Phật Bà Quán Âm, Đức Mẹ Mary, Ông Bà, Tam Tiên Ông: Phúc Lộc Thọ, Thổ Địa, Táo Quân, Thần Tài…
5. Lợi ích và tác dụng của nén hương
Từ ngàn xưa, khi mới khám phá ra lửa, con người đã bắt đầu phát hiện ra một điều lạ lùng, đó là khi ngọn lửa cháy lên sẽ tỏa ra mùi thơm đặc biệt tùy theo vật liệu dùng để đốt[7]. Người ta đã biết dùng hương đèn để trị bệnh cho thân thể và cả bệnh tâm lý. Khi đốt hương đèn, khói hương nghi ngút tạo nên không khí thanh tịnh, ấm áp và trang nghiêm hoặc tạo không khí trong sạch trong những căn phòng lạnh lẻo của người qua đời hoặc lâm trọng bệnh.
Thông thường, người ta thắp nhang là để khẩn thiết cúi đầu mong tấm lòng thành kính của mình sẽ quyện theo làn khói thơm hướng về cõi thiêng liêng hoặc xông lên tận ngai vàng của Đức Chúa Trời hoặc một đấng nào khác. Do vậy trong kinh Phật mới có bài kệ:
Nguyện đem lòng thành kính, Gởi theo đám mây hương.
Phảng phất khắp mười phương. Cúng dường ngôi Tam Bảo […]
6. Khi thắp nhang nên thắp mấy nén?
Người Việt Nam đã quen chọn số lẻ (1, 3, 5, 7, 9) lúc thắp nhang, nhưng cũng có trường hợp người ta đốt cả nắm nhang chứ không chú trọng vào ý nghĩa con số. Còn theo lý giải của nhà Phật cho rằng, số lẻ mang nhiều ý nghĩa linh thiêng hơn.
Con số 3 thì có nhiều quan niệm khác nhau: đó có thể là
Tam bảo (Phật – Pháp – Tăng),
Tam giới (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới),
Tam thời (Quá khứ – Hiện tại – Vị lai),
Tam vô lậu học (Giới – Định – Tuệ)
Nén hương, cũng có thêm một ý nghĩa đặc biệt khác nữa, đó là thắp nhang để nhớ đến sự vô thường. Vô thường là từ Hán-Việt, tức là không vĩnh viễn – tất cả đều giả tạm, cho nên lúc nén hương tắt cháy thì cũng tượng trưng cho đời người tắt chắy, ngắn ngủi vô thường như thời gian của nén hương.. tàn tro của hương nhắc nhở chúng ta chớ để thời gian trôi qua, uổng phí tháng ngày.
7. Ý Nghĩa Dâng Hương trong nhà Phật và các tôn giáo khác
Trong nghi lễ Phật giáo, hương là một trong sáu lễ vật dâng cúng, gồm có: Hương, Hoa , Đăng , Trà , Quả , Thực (Nhang, Bông, Đèn, Trà, Trái, Thức ăn). Tuy nhiên nhiều người không rõ về ý nghĩa sâu xa của việc cúng Phật nên bày biện đủ thức ăn uống như yến tiệc, thật là phí của, phí công mà lại còn làm sai lạc ý nghĩa. Không lẽ Phật sẽ lên trên bàn thờ mà ăn từng trái táo, uống từng chung trà sao?
Theo quan niệm của Phật giáo, lòng thành thể hiện qua làn khói hương nghi ngút, không cần cỗ bàn yến tiếc tiệc thịt cá, heo quay linh đình… vì đúng ý nghĩa sự Cúng Phật thì chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái tốt, nước trong là đủ.[8] Phật không phải ở trên bàn thờ, trong những pho tượng, mà là ở trong tâm của tất cả con người. Ngoài những nén hương dùng ngọn lửa nóng để đốt cháy lên, chúng ta còn có thể dùng đức tin của mình thắp lên những nén Tâm hương- tức là hương từ trong tâm. Bởi vậy mới có năm thứ hương dùng để cúng dường chư Phật: Giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương và giải thoát tri kiến hương.
Không chỉ Phật giáo, mà cả các tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo cũng dùng hương trong các ngày lễ của mình. Người Thiên Chúa giáo xông hương trong các thánh lễ, trước bàn thờ, trước cuốn Kinh Thánh, mình Thánh, rượu Thánh và cả linh cửu của người đã mất[9]… Trước thời Chúa Giê-su (Jesus), những hương liệu như loại trầm frankincense có giá trị hơn cả vàng bạc châu báu[10]. Đó là vì cổ nhân tin rằng những loài cỏ cây thơm là do chư Thiên ban cho từ trên cao và đã thấm nhuần hương thơm của Đức Chúa Trời.
Có tài liệu ghi rằng, khi Chúa Giê-su giáng sinh, có ba vị vua đem ba thứ châu báu quý nhất trong nước thời đó để dâng lên cho ngài – đó là 1. Vàng, 2. Hương Trầm và 3. Dầu thơm đặc biệt từ rễ cây Myrrh. Điều này chứng tỏ hương trầm từ xa xưa vốn đã được xem như một vật quý giá thiêng liêng. Khói hương hòa vào không khí khiến cho không gian vạn vật xung quanh đều được thơm ngát, ví như tâm hành “Tùy thuận chúng sinh” của các bậc Bồ tát Đại nhân vậy.
Những tôn giáo khác như Ấn Độ giáo (Hinduism) thì lại dùng hương để thư giản và tập trung hơi thở lúc ngồi Thiền. Trong khi đó, dạo Phù Thủy (Wiccanism) dùng hương để trở về với sức sống thiên nhiên để cảm thông với các vị nữ thần như Aphrodite. Trái lại, theo đạo Khổng (Confucianism) thì khói hương tượng trưng cho Đại Trượng Phu – chỉ bay lên chứ không bao giờ lặn xuống.
Hương không có màu sắc nhưng luôn thơm ngát, như câu “Tự tại trong hành xứ, như chim giữa hư không, tìm dấu chân không thấy”[11]. Như mùi hương vô sắc phảng phất thơm lừng, bậc tĩnh lặng sống tự tại giữa đời, đem lại an lạc và lợi ích cho đời nhưng không lưu lại một dấu tích danh sắc nào trên bia ký. Rời khỏi cuộc đời, có chăng chỉ là một khoảng không gian ngát hương: mùi hương của loại hương bay ngược chiều gió!
Ở nhiều vùng thuộc Nam Bộ, người ta còn thắp hương cho từng gốc cây, góc nhà với quan niệm mọi vật đều có đời sống tâm linh của nó, cũng như là để thần thánh, hoặc vong/ hương linh hút vàp sức lực để hiển linh.
Một điều chúng ta phải cần ghi nhớ là mỗi lần dâng hương trước bàn thờ: không những dâng hương bằng tấm lòng thành kính của mình, mà còn phải có chánh niệm, tiếng Anh gọi concentration (sự tập trung). Nên cắm từng nén hương với hai tay và cắm cho ngay thẳng, tượng trưng cho tấm lòng ngay thẳng, mặc cho bão táp phong ba không hền dời đổi, giữ nguyên phong cách của ngừời quân tử tấm lòng trong sạch để lưu lại tiếng thơm với đời tỏa khắp nơi.
Tư vấn, xây dựng Khu Lăng Mộ Đá Đẹp tại Ninh Bình – Đá mỹ nghệ Anh Quân
Hương trầm, sợi dây nối với thế giới tâm linh
Cứ vào tháng cuối năm, khi mọi người bàn tán về việc sắm tết, làm tôi nhớ lại lúc bé khi còn ở quê được mẹ cho đi chợ huyện sắm hàng tết là thích lắm. Thế nào tôi cũng đòi được mẹ mua cho đủ thứ, nào pháo dây, con tò he, và một vài thứ khác nữa….
Những lần ấy, trước khi đi chợ bà tôi thường dặn mẹ:”Mẹ cái gái đi chợ nhớ mua bó hương trầm nhé”. Bà tôi vẫn thường nói;” Ngày tết thiếu thứ gì cũng được nhưng nhất thiết phải có bánh chưng và nén hương thơm để cúng tổ tiên , ông bà”. Bây giờ bà tôi không còn nữa, tôi cũng đã thoát ly ra Hà Nội. Nhưng mỗi dịp về thăm quê, nhất là vào dịp giỗ, tết bao giờ ngoài bánh mứt tôi cũng nhớ mua vài bó hương trầm về và thành kính dâng lên ban thờ và thắp những nén hương thơm ngát. Tôi có cảm giác nén hương trầm toả ra mùi thơm ngào ngạt như sợi dây máu thịt nối liền giữa người đang sống với vong linh những người đã khuất. Đúng như câu ca dao:
“Vẫn còn đây những lời ru
Vờn bay phảng phất cho dù tháng năm
Tổ tiên một nén nhang trầm
Nối dòng máu đỏ âm thầm thiết tha”.
Cũng như một số vật dụng khác, tưởng chừng rất nhỏ bé, nhưng không thể thiếu được trong đời sống của chúng ta. Hương trầm cũng là một thứ nằm trong số đó, nhất là trong đời sống tâm linh của người dân Việt nam dù đang sống tại quê hương hay ở nơi xa sứ trên đất khách quê người.
Hương thơm đặc trưng của khói trầm
Hương là thứ mà nhà nào cũng thường dùng, trong những ngày giỗ ,tết hay lễ hội ngày một, ngày rằm hàng tháng, nó không thể thiếu được. Nhưng tôi tin rằng, sẽ rất ít người trong chúng ta quan tâm tìm hiểu về nguồn gốc nén hương đó có từ đâu, bao giờ và làm như thế nào, bằng gì ? Vậy chúng ta cùng nhau làm cuộc tìm hiểu nhỏ về nén hương nhỏ bé ấy.
Tìm đến hiệu hương Đồng tiến của cụ Đức Ngọc ở số 10 phố Hàng khoai, Hà nội – Một trong số rất ít những nhà làm hương gia truyền nổi tiếng còn lại ở Hà nội ngày nay. Cụ Đức Ngọc nay tuy đã quá tuổi “cổ lai hy” nhưng cụ vẫn rất khoẻ mạnh và tinh nhanh, cụ cho chúng tôi biết. Cụ là hậu duệ thứ 7 trong gia đình truyền thống làm hương gốc ở làng Cao thôn, xã Bảo khê, huyện Kim động, tỉnh Hưng yên mà ngày xưa thường gọi là làng Đông lỗ. Qua cụ Đức Ngọc và một số tư liệu tôi được biết, nghề làm hương ở nước ta có từ rất lâu rồi khoảng 2000 năm, từ thời Hai Bà Trưng nhưng thời đó chỉ có loại hương đen. Hương đen được làm từ một loại nhựa, gọi là nhựa trám mua ở vùng miền núi phía bắc như Phú Thọ, Thái Nguyên….Nhựa trám được trộn với bột than sau khi tán mịn tạo thành thứ bột dẻo quánh, mầu đen. Mỗi khi se hương người ta véo một ít khoảng ngón tay cái rồi vê vào tăm tre và lăn cho tròn. Loại hương đen này khi thắp lên có mùi hơi hắc, ngai ngái. Nó xuất sứ ở xã Xà Kiều, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây .
Còn loại hương trầm nén, hương vòng như ngày nay thường dùng có nguồn gốc tại quê của cụ là làng Cao thôn, xã Bảo Khê, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên .Cụ Đức Ngọc cho biết: Ở làng cụ ngày xưa có cụ bà tên là Đào Thị Khương, lúc sinh thời cụ lấy chồng người Hoa ở tỉnh Phúc Kiến, Trung quốc, rồi về ở quê chồng bên Phúc kiến. Tại quê chồng cụ theo nghề nhà chồng làm hương. Sau khi chồng mất, buồn thương chồng và nhớ nhà, cụ trở về Việt Nam thăm quê hương, nơi chôn rau cắt rốn. Lúc này tại quê nhà thấy bà con họ hàng nghèo túng vì lúc đó không có nghề phụ gì ngoài nghề nông, khi nông nhàn thì ngồi chơi chẳng có việc làm. Thấy vậy cụ dậy cho bà con họ hàng ở quê nghề làm hương trầm. Từ đó nghề hương trầm xuất hiện ở Việt Nam. Và cũng từ đó cuộc sống của người dân trong làng cũng dần một khấm khá lên, làng xóm đông vui sầm uất hơn. Để tưởng nhớ công ơn của cụ, cụ tổ nghề hương trầm người khai sinh ra nghề hương trầm ở Việt Nam, hàng năm cứ đến ngày 21 tháng 8 âm lịch, mọi người lại trở về quê làm lễ giỗ tổ nghề.
Người dân đi lễ chùa với những bó hương thơm
Để làm ra được nén hương trầm trông đơn giản là vậy nhưng quả là cũng lắm gian truân và nhiều công phu. Hoá ra, cái mùi hương dìu dịu, man mát mang đến cho lòng người cảm giác linh thiêng và thành kính ấy được làm ra từ rất nhiều vị, chủ yếu là thuốc bắc. Công việc ấy tưởng chừng rất đơn giản, thậm chí nhiều người còn cho rằng chỉ cần một ít mùn cưa và trầm là làm được. Để làm được những công đoạn này không phải là dễ. Gần 60 nguyên phụ liệu cho một nén hương chủ yếu là những vị thuốc bắc như: Tùng, trắc, quy đầu, bạch chỉ, hắc hương, hoa hồi, quế chi, cam thảo và hàng chục vị khác nữa. Tất cả được đem xay nhỏ thành bột riêng từng loại rồi pha trộn chúng từng thứ theo công thức nhất định. Dù biết rằng đó là bí quyết gia truyền, nhưng tôi hỏi vui cụ tỉ lệ pha trộn các vị thế nào? Cụ chỉ cười, một nụ cười rất hiền lành, đôn hậu. Cụ Đức Ngọc cho biết nghề làm hương là nghề “tích phúc” cho con cho cháu, bởi vậy với tâm niệm lớn nhất của cụ là giữ gìn nghề truyền thống của gia đình, và cụ đã truyền nghề cho con gái là chị Tú chủ hiệu hương Đồng Tiến, số 10 Hàng khoai và con dâu mình là chị Nguyễn Kim Thuý chủ hiệu hương Tiến Thành, ở 146 Trần Nhật Duật – Hà Nội.
Chị Kim Thuý – chủ cơ sở hương Tiến Thành đã không phụ lòng mong ước của mẹ chồng mình. Từ nhiều năm nay, cơ sở hương Tiến thành của chị cũng như cơ sở hương Đồng Tiến của chị Tú đã nổi tiếng trong Hà Nội và nhiều tỉnh thành khác với những sản phẩm từ hương nén, hương vòng và trầm viên.
Theo chị Thuý ,công việc làm ra một sản phẩm hương trầm khá tỉ mỉ và phức tạp. Nếu ai không có lòng kiên nhẫn, không yêu nghề thì không làm được. Để có được nén hương thơm, nguyên liệu phải chọn loại thật tốt sau đó các vị thuốc được đem xay nhỏ mịn, khi cân đong phải thật chính xác, đúng tỉ lệ. Dẫn tôi đi thăm xưởng sản xuất, chị nói :”ngay cả khi trộn bột, nước cũng phải đong chính xác ”Sau khi bột hương được trộn nhuyễn, mà phải trộn trong chậu sành, dưới bàn tay khéo léo, thoăn thoắt của người thợ nén hương được hình thành. Công đoạn cuối cùng là lăn que hương vào một thứ bột, trong nghề gọi là bột xoa.
Lúc này những nén hương không bị dính vào nhau nữa và được đem đi phơi. Hương được phơi khắp sân, sắc vàng rực rỡ. Hương được bó chân lại với nhau từng bó lớn, thân xoè ra phơi nắng, mầu vàng sáng trông tựa như những bông cúc đại đoá thật đẹp mắt. Còn hương vòng thì công đoạn sản xuất phức tạp hơn nhiều. Tôi hỏi chị sao không đưa máy móc vào sản xuất, chị cho biết hương làm bằng máy bị ép chặt cháy rất lâu, tụng hết bài kinh mà hương vẫn chưa cháy hết là không được vả lại độ thơm cũng bị giảm đi và khói nhiều. Hương làm bằng máy chỉ dùng cho hương muỗi, nhà chị không sản xuất.
Cùng với sự phát triển của nghề làm hương, gia đình chị Thuý đã tạo điều kiện kiếm sống bằng chính sức lao động của mình cho rất nhiều lao động trẻ ở nông thôn trong lúc nông nhàn, hay cho những trẻ em bị khuyết tật. Phần nào giúp cho cuộc sống của họ đỡ khó khăn hơn.
Nhưng giữa thời buổi kinh tế thị trường, hàng ngoại tràn ngập nhiều loại hương nước hoa hoá chất hay hàng giả bầy bán la liệt, người người thắp hương ,nhà nhà thắp hương. Để giữ được chữ tín, giữ được nghề gia truyền và tôn thêm vẻ đẹp bản sắc văn hoá dân tộc, cụ Đức Ngọc nói “người làm nghề hương phải yêu nghề và quan trọng nhất là phải có cái TÂM.”.Khách có thể dễ dàng mua hương ở bất kì đâu, nhưng khi đã thắp nén hương trầm của thương hiệu Đồng Tiến hay Tiến Thành sẽ không bao giờ quên được mùi hương thơm ngát, dịu nhẹ và họ biết rằng mình đang thắp lên bằng tấm lòng thành kính, trong sạch, không vương víu bụi trần.
Cụ còn cho biết hương nhà cụ sản xuất hoàn toàn bằng những vị thuốc bắc, như vậy mùi thơm mới tự nhiên, trong sạch và thoát tục. Còn những loại hương làm bằng hoá chất, mùi nước hoa vừa không tốt cho môi trường và vừa thơm mùi thơm trần tục.
Nén hương biểu tượng cho tấm lòng thành kính của những người đang sống với thế hệ đã khuất. Tượng trưng cho sự biết ơn của thế hệ trẻ với thế hệ cha anh đi trước. Nén hương là sợi dây liên lạc với thế giới tâm linh, nén hương được thắp lên với lòng thành kính tổ tiên .Hương thơm ngan ngát, nhè nhẹ lan toả, khói hương cuộn bay lên mờ ảo. Nhưng đằng sau đó là bao nỗi nhọc nhằn, vất vả, là sự yêu nghề và là cái TÂM của những người làm nghề hương tiêu biểu như gia đình cụ Đức Ngọc – chị Kim Thuý chủ hiệu hương Đồng Tiến và hiệu hương Tiến Thành.