Cuộc đời thanh đạm cũng là hưởng thụ, hưởng thụ sự yên tĩnh thong dong. Ung dung tự tại, mà lại chứa đựng trí tuệ vô cùng vô tận. Chỉ 6 chữ dưới đây đã tiết lộ cho chúng ta rất nhiều điều.
Khổng Tử đã từng nói: “Chi lan sống nơi rừng sâu, không bởi không người biết đến mà không thơm. Người quân tử tu Đạo lập đức, không bởi bần cùng mà thay đổi tiết hạnh”.
Cuộc đời thanh đạm là một loại hưởng thụ, hưởng thụ yên tĩnh thong dong, sống trong cảnh giới thoát tục, mà lại chứa đựng trí tuệ vô cùng vô tận. Đó chính là: “Trí tuệ tích lũy từng ngày, thông huệ tàng chứa ở tâm”.
Nhưng con người sống chính là bôn ba vì vận mệnh, mệt mỏi vì cuộc sống, vì truy cầu danh lợi mà so đo tính toán, cho nên người vui lòng với cảnh tịch mịch, đạm bạc danh lợi thì rất ít.
Nội hàm 6 chữ sau đây, thực sự là một phong thái sống ung dung tự tại, không mê mờ.
1. Nhẫn (忍)
Nội dung chính
Trong chữ Nhẫn có một lưỡi dao.
Viết thư ngàn dặm bởi tường cao,
Nhường ba thước đất hại gì sao?
Đại học sỹ Trương Điện Anh đời Thanh khi làm quan ở kinh thành, một hôm ông nhận được phong thư của gia đình. Sau khi xem thư, ông hiểu rõ nguyên do sự tình: Thì ra người hàng xóm xây bức tường có lấn ra ngoài 3 thước (khoảng 1 mét), nhưng người nhà Trương Điện Anh không chịu nhường, do đó hai bên tranh chấp mãi. Bất lực, người nhà mới viết thư cho Trương Điện Anh, hy vọng mượn thế lực của ông để dọa hàng xóm, để anh ta dừng chiếm đất xây tường. Trương Điện Anh lập tức viết thư trả lời rằng:
Viết thư ngàn dặm bởi tường cao,
Nhường ba thước đất hại gì sao?
Vạn Lý Trường Thành nay còn đó,
Thủy Hoàng năm ấy giờ nơi nao?
Người nhà nhận được thư, lập tức nghe theo ý Trương Điện Anh, nhường cho hàng xóm 3 thước đất. Sau khi hàng xóm biết được việc này, anh ta hối hận sâu sắc, cũng chủ động nhường ra 3 thước đất, thế là thành một cái ngõ nổi tiếng có tên “Ngõ 6 thước”.
Người có tấm lòng rộng mở ôm chí lớn mới biết nhẫn, mới buông bỏ được những phân tranh vô vị trước mắt.
Người có tầm nhìn rộng lớn cao xa mới có thể nhẫn, để thưởng thức ánh sao sáng mỹ lệ trên bầu trời.
Nhẫn không phải là hèn nhát, càng không phải là vô dụng. Nhẫn là sức mạnh, là tư tưởng, là từ bi và là trí huệ.
2. Hòa (和)
Thiên Địa hòa, vạn vật sinh
Trăng thu rải ánh sáng vàng
Mặt hồ phẳng lặng ánh quang sáng ngời.
Lạn Tương Như đi sứ nước Tần, giữ được quốc thể, lập công lớn. Triệu Huệ Văn Vương hết sức tín nhiệm Lạn Tương Như, phong làm Thượng khanh, địa vị cao hơn đại tướng Liêm Pha.
Liêm Pha không phục, nói với các môn khách: “Ta là đại tướng của Triệu, lập bao công lao trên chiến trường. Lạn Tương Như thì có gì ghê gớm, chỉ dựa vào 3 tấc lưỡi mà lại vượt lên đầu ta. Nếu ta gặp hắn, ta sẽ cho hắn biết tay”.
Chuyện đến tai Lạn Tương Như, ông liền cáo bệnh không vào triều.
Một hôm, Lạn Tương Như có việc cùng môn khách ngồi xe đi ra ngoài. Từ xa thấy có xe ngựa của Liêm Pha đi tới, Lạn Tương Như vội bảo người đánh xe rẽ vào một ngõ hẻm để tránh đường.
Việc đó khiến các môn khách của Lạn Tương Như rất bực bội, cho rằng Lạn Tương Như hèn nhát.
Lạn Tương Như hỏi họ: “Các ông xem, giữa tướng quân Liêm Pha và Tần Vương thì ai có thế lực lớn hơn?”.
Mọi người đều nói: “Tất nhiên là Tần Vương có thể lực lớn hơn”.
Lạn Tương Như nói; “Đúng như vậy. Chư hầu trong thiên hạ đều sợ Tần Vương. Thế mà ta dám mắng thẳng vào mặt Tần Vương, thế thì sao ta lại sợ tướng quân Liêm Pha? Ta chỉ nghĩ rằng, nước Tần lớn mạnh không dám xâm phạm nước Triệu, bởi vì có ta và tướng quân Liêm Pha. Nếu hai người chúng ta bất hoà, nước Tần biết tin, sẽ nhân cơ hội lại xâm phạm nước Triệu. Chính vì điều đó mà ta phải nhún nhường”.
Có người kể lại cho Liêm Pha. Liêm Pha rất hổ thẹn, liền để mình trần, mang roi gai trên lưng, tới nhà Lạn Tương Như nhận tội. Ông nói với Lạn Tương Như: “Tôi là một kẻ lỗ mãng thiển cận, bụng dạ hẹp hòi, lại được ngài rộng lượng như vậy, tôi rất lấy làm hổ thẹn, xin tình nguyện chịu sự trách phạt của ngài”.
Lạn Tương Như vội đỡ Liêm Pha dậy, nói: “Hai chúng ta đều là đại thần của nước Triệu. Tướng quân đã hiểu ra, tôi vô cùng cảm kích, đâu dám nhận lễ của tướng quân nữa”.
Hai người đều cảm động rơi nước mắt. Từ đó, họ trở thành bạn bè thân thiết.
Trời cao chim thỏa sức bay, biển rộng cá cứ vẫy vùng, quân tử hòa đồng mà không bè phái.
Hài hòa với bản thân, coi nhẹ danh lợi thì tâm an định bình ổn.
Hài hòa với người khác, tâm can sáng tỏ chiếu lòng nhau, tình tự thắm thiết.
Vợ chồng hài hòa, hiểu nhau cùng gìn giữ, ấm áp tình.
Gia đình hài hòa, sự nghiệp hưng thịnh phúc bất tận.
Thiên hạ hài hòa, may mắn phúc lành khắp càn khôn.
3. Khổ (苦)
Người khổ tâm, Trời chẳng phụ
Đời Xuân Thu, hai nước Ngô và Việt đánh nhau. Sau trận đại bại tại Cối Kê, vua Việt là Câu Tiễn phải mình trần sang lạy vua Ngô là Phù Sai xin hàng. Ngô vương bắt vợ chồng Câu Tiễn phải sang Ngô làm con tin, có quan Tướng Quốc là Phạm Lãi theo hầu. Cả ba đều bị giam trong ngục đá.
Lăng Mộ đá Anh Quân, Đại kị trong phong thủy âm trạch, Chọn huyệt cát tốt
Hằng ngày vợ chồng Câu Tiễn và Phạm Lãi phải cắt cỏ, hốt phân ngựa, gánh nước rửa dọn chuồng ngựa, kiếm củi nấu cơm… Suốt thời gian ba năm, chúa tôi sống một cách vô cùng vất vả cực nhọc, nhưng vẫn bền chí đợi thời. Một hôm vua Ngô đau, Câu Tiễn nghe theo lời của Phạm Lãi là chịu nếm phân của vua Ngô để được vua Ngô tin kẻ hàng giữ dạ trung thành. Nhờ đó mà cả ba được phóng thích về nước.
Được trở về cố quốc, nhớ đến nỗi thất bại nhục nhã và bị giam cầm làm nô lệ, Câu Tiễn liền gắng công xây dựng đất nước, chờ đợi thời cơ để rửa hận. Câu Tiễn tôn hiền đãi sĩ, kính người già, thương kẻ nghèo, đối xử trăm họ như anh em nên được mọi người mến phục. Đến mùa làm ruộng, Câu Tiễn cũng vác cày đi cày. Vương phi Câu Tiễn cũng chăm việc dệt cửi. Cùng đám dân chia sự lao khổ, ăn mặc rất tiết kiệm.
Câu Tiễn cố sức chăm chỉ làm việc suốt ngày đêm. Khi nào buồn ngủ thì lấy cỏ lục (rau răm) xoa vào mắt cho cay làm mắt phải mở. Chân lạnh muốn co thì dầm nước lạnh. Mùa đông lạnh thì ôm giá. Mùa hè nóng nực thì ngồi bên lửa. Bỏ cả giường nệm, lấy gai lấy củi lót nằm. Quả mật luôn luôn treo ở chỗ ngồi, chỗ nằm, thỉnh thoảng lại nếm một ít như để nhắc lại nỗi tủi nhục, khổ đau.
Cuối cùng nước Việt báo được thù, thôn tính nước Ngô, vua Ngô tự tử.
4. Thiện
Người lương thiện được dài lâu
Làm việc thiện cho người, suy cho cùng chính là làm việc thiện cho mình.
Có một người nông dân trồng ngô, hàng năm ông đều thu hoạch được rất nhiều ngô, ông cho rằng hạt giống của ông rất tốt nên đã chia sẻ cho những người nông dân khác.
Có người hỏi ông tại sao tốt bụng hào phóng như vậy?
Ông nói: “Tôi đối xử tốt với người khác, thực ra cũng chính là đối xử tốt với chính mình. Gió thổi phấn hoa sẽ bay khắp nơi, nếu hàng xóm gieo trồng hạt giống kém chất lượng, thì quá trình thụ phấn sẽ ảnh hưởng đến chất lượng ngô của tôi. Vì thế tôi rất vui khi được cùng các bạn nông dân của mình gieo trồng cùng một loại hạt giống chất lượng cao”.
Hướng dẫn cách chọn vị trí đặt mộ theo phong thủy – Lăng mộ đá ĐẸP Anh Quân
Chỉ có tâm địa thuần khiết, đối với người khác không có ác ý, thì mới có thể bảo trì được cái tâm thiện lương. Tâm thiện thì lời nói cử chỉ cũng thiện, mới khiến thân tâm thu được lợi ích, cuối cùng đắc được thiện báo.
Thế nên cứ vui vẻ đối xử tốt với cuộc sống, thiện đãi người khác, thiện đãi bản thân mình. Cứ mỉm cười dụng tâm sống tốt mỗi ngày, có lẽ đó chính là ý nghĩa đích thực của cuộc sống.
5. Ngộ
Phồn hoa ngắm mãi cũng thành hư không
Phồn hoa nơi nhân thế chỉ là hiện tượng bề ngoài, hết thảy rồi sẽ đi vào tịch mịch hư không.
Lăng mộ đá ĐẸP gia tộc cách hay gìn giữ giá trị văn hóa gia đình
Lã Động Tân, một trong tám vị Tiên bất tử của Đạo gia. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, giỏi thơ phú. Một năm, ông đến Tràng An ứng thí, gặp một vị đạo sỹ phong thái phi phàm thoát tục đang đề thơ trên tường.
Vị đạo sỹ này là Hán Chung Ly, một trong ba người đứng đầu Bát Tiên. Nhìn thấy căn cơ tu Đạo của Lã Động Tân, Chung Ly mời ông cùng về quán trọ đàm đạo.
Ở quán trọ, khi Chung Ly đang nấu cháo kê vàng, Lã Động Tân ngủ thiếp đi và thấy một giấc mơ. Trong giấc mơ, 18 năm đã trôi qua, Lã Động Tân thi đỗ với điểm số cao nhất, làm quan to trong triều, và trở thành Thừa tướng. Ông kết hôn, có con cháu và người hầu kẻ hạ, nhưng một biến cố lớn xảy ra đến với ông. Ông bị phản bội và mất hết mọi thứ, bao gồm cả thân quyến và gia sản, phải lang thang trong nghèo khổ và cô đơn. Tiếc nuối đời mình, Lã Động Tân bừng tỉnh giấc. Nồi cháo kê vẫn chưa nấu xong.
Bình thản nhẹ nhàng đối đãi với được mất, lặng lẽ ngắm trông hết phồn hoa, đối diện với hồng trần huyên náo bằng tâm thái tự tại thoát tục, đó cũng là lĩnh ngộ. Trải qua quãng thời gian ma luyện cái tâm chốn hồng trần, sau khi quay người sẽ càng thong dong tự tại, nhẹ nhàng, thanh đạm đối diện với hết thảy, nắm bắt hết thảy, cuộc đời có bước tiến nhảy vọt về chất.
Mẫu Câu đối Cột đá Nhà thờ họ, Cột đá đồng trụ Nhà thờ họ hay và ý nghĩa
6. Lạc
Một nụ cười mười năm trẻ lại
Dẫu giàu dẫu nghèo cứ vui tươi, kẻ không biết cười đích thị ngu si. Người biết cười lúc gian nan có thể hóa nguy thành an.
Sau khi bị Chu Du dùng hỏa công thiêu cháy đoàn chiến thuyền, tiêu diệt mấy chục vạn quân, Tào Tháo dẫn tàn quân tháo chạy tán loạn. Vừa mới chạy được một đoạn đường, Tào Tháo thấy Lã Mông xuất hiện; Trương Liêu xông ra đánh chặn; nhờ đó Tào Tháo mới thoát hiểm. Tào Tháo cùng đoàn tùy tùng chạy được một quãng lại gặp Lăng Thống chặn đường. May thay có Từ Hoảng kịp thời chạy tới đánh giải vây. Tôn Quyền lại sai Lục Tốn nổi lửa và cho một toán quân đánh thốc tới. Tào Tháo vội vã chạy sang lối Di Lăng, gặp Trương Cáp vừa thua trận chạy tới. Tào Tháo nhìn ánh lửa xa xa hỏi:
– Đây là nơi nào?
Quân sĩ thưa:
– Phía Tây là rừng Ô Lâm, phía Bắc là Nghị Độ.
Tào Tháo ngồi trên lưng ngựa, ngửa mặt lên trời cười không dứt, ông nói:
– Ta không cười người khác, ta chỉ cười Chu Du là kẻ vô mưu, Gia Cát Lượng là người thiểu trí. Nếu ta dùng binh, ta sẽ cho một đội binh mã mai phục nơi đây thì có mà chạy đằng Trời.
Vừa dứt lời, bỗng nhiên chiêng trống nổi lên, danh tướng Triệu Vân của Lưu Bị xuất hiện:
– Ta là Triệu Tử Long. Ta chờ nhà ngươi ở đây đã lâu!
Từ Hoảng và Trương Cáp xông lên nghênh chiến để Tào Tháo chạy. Ông thoát nạn khi trời hừng sáng và mưa bắt đầu nặng hạt.
Chạy được một quãng,Tào Tháo hỏi:
– Đây là đâu?
Quân sĩ thưa:
– Một lối đi Nam Di Lăng có đường lớn, một lối đi Bắc Di Lăng có đường nhỏ.
Tào Tháo ra lệnh đi về hướng Nam Di Lăng.
Tới cửa khẩu Hồ Lô, quân sĩ chết dọc đường rất nhiều, Tào Tháo ra lệnh dừng quân. Cơn mưa mùa đông đã tạnh, quân Tào chuẩn bị nấu cơm. Tào Tháo ngồi dưới gốc cây bất giác cười lớn. Các tướng hỏi:
– Đêm hôm qua Thừa Tướng cười thì có Triệu Tử Long xuất hiện, còn bây giờ Thừa Tướng cười là ý gì?
– Ta nghĩ Gia Cát Lượng và Chu Du, mưu trí chưa đủ. Nếu ta là địch, ta đã cho một đạo quân mai phục nơi đây; kết qủa không đánh cũng thắng!
Tào Tháo vừa dứt lời, đội quân phục kích của Trương Dực Đức reo hò vang dội một góc trời. Có tiếng thét lớn:
– Tào Tháo chớ chạy!
Nhìn ra thấy Trương Phi, Tào Tháo thực sự sợ hãi, mất hết tinh thần và sinh lực. Hứa Chử vội nhảy lên ngựa không yên xông ra đánh. Tào Tháo thừa cơ hội thoát khỏi quân truy kích.
Đang chạy có tiếng quân báo:
– Trước mặt có 2 đường: đường lớn xa khoảng mười dặm, đường nhỏ rất khó đi, gọi là khe núi Hoa Dung.
Tào Tháo lên cao nhìn, thấy phía cửa ải Hoa Dung có khói. Ông truyền lệnh theo khe núi Hoa Dung mà đi. Các tướng ra sức khuyên can:
– Nơi nào có khói, tức nơi đó có quân mai phục.
Tào Tháo một mực khẳng định:
– Binh pháp phải hư hư thực thực. Gia Cát Lượng cho đốt lửa ở khe núi Hoa Dung là cốt ý để ta không đi ngõ đó. Thực ra ông ấy cho quân mai phục ở đường lớn. Đừng mắc mưu Gia Cát Lượng.
Các tướng đều khen Thừa Tướng mưu cao. Đi được vài dặm mọi người lại nghe Tào Tháo cười khúc khích. Các tướng thất kinh, hồn xiêu phách tán. Tào Tháo giải thích:
– Gia Cát Lượng và Chu Du thiếu khôn ngoan! Nếu họ cho một đạo quân mai phục nơi đây thì ta chỉ còn nước xuống ngựa xin hàng!
Bất ngờ, một tiếng nổ kinh hoàng…đồng thời Quan Vân Trường cầm thanh đao xông ra chặn đường. Mọi người nhìn nhau bàng hoàng…Tào Tháo giục:
– Tất cả đều xuống ngựa!
Các tướng liều chết đánh một trận giải vây nhưng Tào Tháo một lần nữa cứng rắn lặp lại lệnh trên. Sau đó ông hạ giọng giải thích:
– Vân Trường là một danh tướng có tài! Chúng ta đã hết sức rồi! Đánh, chắc chắn chúng ta sẽ bị giết hoặc bị bắt hết. Ông ta là người luôn trọng nghĩa; để ta tìm cách dùng lời lẽ chinh phục ông ấy.
Sống vui với suối đá trúc hoa, cầm kỳ thi thư.
Với bằng hữu tri âm đối ẩm ngâm thơ, ngắm hoa thưởng nguyệt, vui vẻ hát ca, cùng đàm đạo.
Đi thì đến danh sơn đại xuyên du ngoạn, leo núi cao nhìn xa xa, tìm người hiền, thăm bạn hữu, tình ý liên miên.
Trong những hoạt động tao nhã không dính mùi danh lợi của thế tục như thế này, cuộc sống là chuỗi ngày vui vẻ bất tận, chẳng kể giàu nghèo, cứ ung dung tự tại.
Thời gian vui vẻ như thế này, cũng là một trong những lý do mà chúng ta sống trên cõi đời.
Mẫu điếu văn tang lễ (8 mẫu, mới nhất) – Mẫu Lăng mộ đá, Mộ đá Ninh Bình
Một góc nhìn về Mồ Mả của GS Lương Ngọc Huỳnh xin phép chia sẻ
SỐNG VỀ MỒ VỀ MẢ CHẲNG AI SỐNG VỀ CẢ BÁT CƠM.
( Viết về kiến thức chọn đất và đặt mộ gia tiên ông bà )
Trong văn hoá Việt Nam bất luận là Nho giáo hay Phật giáo bất luận là đạo gì… thì con cháu luôn luôn mong muốn báo đáp công ơn của tổ tiên, đó là nét đẹp văn hoá uống nước nhớ nguồn.
Hàng năm cứ đến gần Tết hoặc tiết Thanh minh là con cháu lại lo làm mộ cho gia tiên, ông bà, bố mẹ….
Ngoài Bắc thì có tục lệ Sang Cát bốc mộ, trong nam thì có tục lệ tu sửa mồ mả….
Việc đặt mộ cho gia tiên, ông bà, bố mẹ… là việc tối quan trọng đối với mỗi gia đình dòng tộc, bởi theo quan niệm phong thủy thì đặt mộ đúng sẽ phát phúc sinh tài, còn đặt mộ sai thì gặp nhiều tai ương khí vận đi xuống!
Trong thuật phong thủy thì khi chọn đất làm mộ cần có những yếu tố sau.
* Thứ nhất: Phải trọn vị trí nơi có khí thiên trụ vào cung quan Lộc hoặc cung tài Lộc. Ngoài ra chí ít cũng phải có cung bảo vệ, hoặc cung đạo Đức.
Chẳng may đặt ở vị trí có cung tai họa, hoặc cung cát hung, thì khổ cho con cháu!
* Thứ 2: Vị trí đặt mộ còn cần các yếu tố về hình thế kết hợp với bát Trạch Cửu cung địa vận, vừa đảm bảo nguyên tắc thanh Long, bạch Hổ, chu Tước Huyền vũ, lại phải đặt vào các vị trí, sinh khí, thiên y, phục vị, diên niên.
Nếu chẳng may đặt nhầm vào tuyệt mệnh, họa hại, lục sát, ngũ quỷ thì con cháu lại khổ!
* Thứ 3: Chọn được vị trí rồi còn phải tính hướng, trong 8 hướng mỗi hướng có những ý nghĩa khác nhau, mà mỗi hướng lại có các tọa độ khác nhau, người cần con cháu có cơ hội làm quan chức thì đặt hướng quan Lộc, người cần con cháu làm ăn phát tài có tiền nhiều thì đặt hướng tài Lộc.
Chẳng may đặt nhầm hướng vào cung tai họa thì dù có đúng huyệt cũng khó mà phát được.
* Thứ 4: Có khí thiên trụ tốt, có hình thế tốt, có hướng tốt rồi lại còn phải xem Long mạch có thuận hay không, nếu Long mạch thuận thì con cháu sẽ chính nhân, làm quan phát tài mà bền vững. Nếu Long mạch nghịch thì dù có làm quan phát tài cũng bị tai tiếng, lại thường gặp tai ương, ốm đau bệnh tật tù tội.v.v…!
[100+] Mẫu Lăng mộ đá đẹp 2021, Báo giá Lăng mộ đá 2021 [Mới nhất]
* Thứ 5: Âm mộ có vượng thì phúc khí mới lớn, nhiều người bỏ rất nhiều tiền xây lăng tẩm hoành tráng tốn kém vô cùng mà mộ phần không phát!
Cho nên muốn âm vượng thì cái cần là làm ở phần âm mộ. Nghĩa là người ta làm các thuật phong thủy kết hợp với thất bảo đặt dưới mộ xoay chuyển phúc khí bằng phép thuật để tạo nên trường khí lại phải kết nối được âm dương kết phúc sinh tài phát Lộc thì mộ phần phần kết phát nhanh mà con cháu được hưởng sớm.
Ngoài 5 yếu tố không thể thiếu trên còn cần phải có các nghi lễ về âm phần đầy đủ, chẳng hạn:
– Chọn ngày giờ tốt. Lễ động thổ. Lễ sang cát nhập quan, nhập quách. Lễ tống tà thần. Lễ di quan. Lễ nhập Tân mộ. Lễ chiêu hồn và an mộ. Lễ báo gia tiên và tạ ơn….
Để làm được phúc khí cho mỗi ngôi mộ lớn hay nhỏ phụ thuộc vào cái tài và sự hiểu biết của mỗi thầy phong thủy.
Làm mộ là một trong những điều khó nhất và cẩn thận nhất của một đời người! Mọi chi tiết tư vấn, xây dựng LĂNG MỘ ĐÁ, MỘ ĐÁ ĐẸP cho Ông Bà, Cha Mẹ, Gia tộc, Dòng họ xin liên hệ:
ĐÁ MỸ NGHỆ ANH QUÂN, làng nghề Đá Ninh Vân, Hoa Lư, Ninh Bình
Điện thoại: 0915.895.699 (Zalo). Rất hân hạnh được tư vấn MIỄN PHÍ tới mọi quý khách hàng, độc giả!
Tại sao một tổ tiên lại có thể tác động tới đời con cháu? Lăng Mộ đá Ninh Bình